1. Thực
trạng tình hình tập thể, cá nhân trước khi lập thành tích, có sáng kiến, đề
tài nghiên cứu.
- Lớp Nhà trẻ có 20
cháu trong đó có 13 cháu nam và 7 cháu nữ.
-
Đối tượng trẻ: 24-36 tháng.
-
Trường Mầm Non
-
Thời gian thực hiện năm học: 2014-2015 .
- Địa điểm: Trường
Mầm Non
Sau một thời gian là giáo viên chủ nhiệm
lớp 24 – 36 tháng. Tôi đã nhận thấy
những điều kiện thuận lợi và khó khăn ở lớp tôi như sau:
a/ Thuận lợi:
-
Phòng học rộng rãi, thoáng mát, an toàn, có đủ ánh sáng cho trẻ hoạt động.
- Bản thân tôi cũng luôn cố gắng học tập
không ngừng năng cao trình độ. Biết ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
-
Được sự quan tâm, giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của BGH nhà trường về mặt tài
liệu, cơ sở vật chất để thực hiện đề tài.
b/ Khó khăn:
-
Do là trẻ nhỏ nên việc trao đổi giữa cô và trẻ cũng gặp nhiều khó khăn.
-
Trường trang bị những dụng cụ làm thí nghiệm cho trẻ khám phá khoa
học còn ít.
-
Khả năng nhận thức của trẻ 24 – 36 tháng thì đây mới chỉ là bước đầu của tư
duy trực quan hình tượng với các hình tượng còn đang gắn liền với hành động.
Trẻ hoàn toàn chưa biết đến phân tích, tổng hợp nên chỉ biết nhìn sự việc dừng
lại ở từng chi tiết nên sự hiểu biết về môi trường xung quanh của trẻ còn nhiều
hạn chế.
- Khi nghe nói đến câu “Trẻ mầm non Khám Phá
Khoa Học”, tôi thật sự ngạc nhiên và tự hỏi : “sự hiểu biết của trẻ mầm non yếu”.
Thế nhưng khi tôi tham khảo một số tài liệu nói về “khám phá khoa học cho trẻ
mầm non” và dự giờ một vài hoạt động thí nghiệm của khối lá và khối chồi, tôi
tự hỏi bản thân mình: “tại sao mình không tìm lấy những thí nghiệm khoa học đơn
giản phù hợp với lứa tuổi trẻ của lớp mình từ các tài liệu và tạo cơ hội cho
trẻ của mình cũng được tham gia khám phá khoa học.
-
Lúc mới áp dụng đề tài vào thử nghiệm ở lớp tôi cũng gặp không ít
khó khăn vì dụng cụ làm thí nghiệm vẫn chưa nhiều chủ yếu là tôi
phải tự tìm nguyên vật liệu để chuẩn bị, thời gian cho trẻ làm thí
nghiệm cũng không nhiều.
-
Với những suy nghĩ và mong ước để trẻ lớp tôi có thể hiểu biết về thế giới xung
quanh thông qua các thí nghiệm khoa học vui, càng giúp tôi có nhiều động lực
tìm ra một số hoạt động phù hợp với lớp và cùng các cháu tham gia thí nghiệm,
cùng chơi, cùng trải nghiệm và cùng tìm ra kết quả giúp cho tiết học vô cùng
sinh động. Do tôi muốn thực hiện đề tài về các thí nghiệm khoa học
vào tiết dạy để trẻ khám phá nên vào đầu năm học tôi đã làm một cuộc
khảo sát nhỏ để tìm hiểu về khả năng nhận thức của trẻ như thế nào
để tìm đưa ra tiết dạy phù hợp với khả năng của trẻ nhất.
*Kết
quả khảo sát đầu năm học của lớp cho thấy:
-
Trẻ mạnh dạn tiếp xúc với các dụng cụ thí nghiệm là 60%.
-
Trẻ tập trung quan sát thí nghiệm là 45%.
- Trẻ tự tin phát biều ý kiến
là 35%.
-
Trẻ nắm được kiến thức cơ bản là 40%.
2. Tên sáng
kiến và lĩnh vực áp dụng
Đề
tài: Ứng dụng những thí nghiệm khoa học vui vào công tác giáo dục trẻ ở trường
mầm non.
3. Nội dung,
bản chất của sáng kiến
*
Khám phá khoa học cho trẻ mầm non là gì?
Khám phá khoa học là quá trình trẻ tích cực
tham gia các hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên (quan sát, so sánh,
phân loại, thử nghiệm, dự đoán, suy luận, thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra
quyết định...). Hay nói rõ hơn đó là quá trình tìm kiếm thực sự các kiến thức
mới và thảo luận, chia sẽ điều trẻ nhìn thấy, điều trẻ nghĩ, trẻ băn khoăn,
thắc mắc...
Ví dụ: Thìa (muỗng) được làm bằng chất liệu
nhựa, nhôm, sứ, trẻ có thể khám phá vật nổi, vật chìm từ những cái muỗng này
bằng cách thả vào nước.
* Một số thí nghiệm khoa học vui.
Vì
dạy lấy trẻ làm trung tâm, nên trong quá trình hoạt động về khoa học, tìm
hiểu, đặt câu hỏi liên quan đến các hiện tượng khi làm thí nghiệm....trẻ
sẽ nhận ra và nói được các sự vật,
hiện tượng xung quanh các vật thí nghiệm. Tôi luôn tạo điều kiện cho
trẻ trực tiếp làm thí nghiệm với những dụng cụ, được tham gia trải
nghiệm khám phá về không khí, màu sắc, tính chất của nước,... được thử
nghiệm đúng – sai và cuối cùng trẻ tìm ra một kết quả nào đó sẽ là một điều lý
thú đối với trẻ.
*Thí Nghiệm 1: Không khí quanh em
-
Tôi cho trẻ chơi trò chơi “Bịt mũi”.
+ Khi bịt mũi lại tôi hỏi các con có thở
được không? Đa số trẻ thực hiện theo lời tôi và bảo con thở được, vậy
các con thở bằng gì? Trẻ bảo con thở bằng miệng. Thế thì các con
bịt mũi và miệng lại trẻ hứng thú tiếp tục làm theo và cùng nhau
lắc đầu tôi bảo các con hãy buông tay ra và trả lời cho cô biết khi
bịt cả mũi và miệng con có thờ được không? Trẻ trả lời con không
thở được cô ơi.
+ Tôi đổi cho trẻ đứng những nơi khác
nhau trong lớp: Khi thì cho trẻ đứng vào chỗ tôi qui định, hỏi trẻ: con có
thở được không? Trẻ trả lời con thở được. Khi thì cho trẻ đứng cùng với
các bạn, hỏi trẻ: con có thở được không? Trẻ trả lời con thở được. Khi
thì cho trẻ đứng tự do trong lớp, hỏi trẻ: con có thở được không? Trẻ trả
lời con vẫn thở được.
=> Tôi giải thích cho trẻ biết tại sau trẻ
đứng ở mọi nơi đều có thể thở được: chúng ta thở được là nhờ có không khí,
không khí có ở xung quanh chúng ta.
-
Tôi đặt tình huống: Thế không khí có bắt
được không? Có trẻ nói được có trẻ nói không.
+ Vậy chúng ta làm cách gì để bắt không khí?
Có trẻ nói dùng tay để bắt, lấy nón, lấy bọc, lấy chai,....để bắt không khí.
+ Tôi phát cho mỗi trẻ một cái bong bóng và
yêu cầu: hãy lấy và bắt không khí vào quả bóng, khi nghe tôi nói mỗi trẻ
làm một các khác nhau: có trẻ thì chụp bằng hai tay rồi bỏ vào, có trẻ nắm, bắt
không khí cho vào bong bóng. Thế là tôi gợi ý cho trẻ: Các con hãy dùng hơi
thổi vào quả bóng đến khi quả bóng phình to ra thì bịt miệng bóng lại
hoặc dùng ống bơm để bơm không khí vào trong.
=> Tôi giải thích: bong
bóng phình to ra được là nhờ có không khí ở bên trong. Để biết không khí
như thế nào tôi cho trẻ mở miệng bong bóng và kéo nhỏ miệng bong
bóng sang hai bên, khi không khí thoát ra tạo ra hơi gió nhẹ và còn
phát ra tiếng kêu, tôi cho trẻ buông hai tay ra bong bóng còn bay lượn
trong khong trung làm trẻ thích thú nhìn theo và bảo bong bóng bay
được cô ơi. Tôi vui mừng khi nhìn thấy trẻ hào húng và khoe với tôi
khi nhìn thấy những điều mới lạ.
-
Những trò chơi nhỏ ấy đã làm cho tiết học trở nên sôi động và thu hút sự tập
trung của trẻ hơn, nhờ vậy các cháu được trực tiếp thực hiện để biết không khi
như thế nào, biết không khí luôn ở xung quanh chúng ta, và biết muốn thở được
thì cần phải có không khí.
*Thí nghiệm 2: Có gì trong chai không?
a. Mục đích:
Trẻ
biết không khí không màu, không mùi nên bằng mắt thường ta không nhìn thấy
được.
b. Chuẩn bị:
-
Chai thủy tinh không đựng gì ( Đủ cho cô và trẻ).
-
Thau nước vuông ( Đủ cho cô và trẻ).
c. Cách tiến hành
Tôi cho trẻ quan
sát phía trong và phía ngoài chai sau đó cho trẻ cùng nhìn và ngửi bên
trong chai có chứa gì không. Tất cả trẻ đồng loạt nói không có thấy gì
bên trong và cũng không ngửi thấy được mùi gì hết. Tiếp tục cho trẻ
quan sát bên trong cái thau và hỏi trong thau có gì? Trẻ trả lời là
có nước, tôi cho trẻ quan sát và hỏi trẻ nhìn thấy gì? Trẻ nói con
thấy bóng mình trong nước, không thấy màu và cũng không ngủi thấy
mùi gì.
Tiếp tục tôi cho
trẻ thả chai thủy tinh đó vào trong thau nước và hỏi trẻ khi chai
được thả vào thau nước các con thấy gì? Trẻ trả lời thấy rất nhiều
bong bóng nổi lên và phát ra tiếng nhưng rồi sau đó thì những bong
bóng biến mất.
d. Giải thích và kết luận
Các
con cũng quan sát thấy trong chai thủy tinh khi chưa bỏ vào nước thì trong
chai cũng không có chứa gì và cũng không có mùi gì, nhưng khi thả
chai thủy tinh vào trong nước lại có nhiều bọt khí nổi lên và phát
ra âm thanh. Hiện tượng này là do trong chai có chứa rất nhiều không khí, do
không khí không màu, không mùi nên bằng mắt thường con không nhìn thấy được.
Khi cho chai vào thau nước khiến nước tràn vào trong chiếm chỗ trong chai nên
đẩy không khí ra ngoài thành bọt khí gây ra hiện tượng nổi bong bóng.
*Thí nghiệm 3: Bé biết những gì về nước?
a. Mục đích:
Cho
trẻ biết nước nguyên chất không có màu, không mùi, không vị và có thể hòa tan
với các chất khác.
b. Chuẩn bị:
-
Mỗi trẻ sẽ có ba ly có chứa nước nguyên chất và 3 cái thìa ( Đủ cho cô và
trẻ).
-
Bột màu xanh, đỏ, vàng ( Đủ cho cô và trẻ).
c. Cách tiến hành:
Tôi
phát cho mỗi trẻ ba ly nước nguyên chất và cho trẻ nói về màu sắc, mùi
vị của ba ly nước ấy. Qua quan sát trẻ thấy và nhận xét ba ly nước
không có màu, không có mùi vị và có thể nhìn thấy vật bên kia của
ly nước. Vậy cô đố các con cái gì có thể hòa tan trong nước? Mỗi
trẻ nghĩ ra thứ, có trẻ thì bảo
đường có thể tan trong nước, có trẻ thì nói muối, nước đá,.....Để
biết nước có thể hòa tan những gì cô và các con cùng làm thí
nghiệm nhỏ.
Tiếp
theo tôi phát cho mỗi trẻ một ít bột màu đỏ và bảo trẻ cho một ít
bột màu đỏ vào ly nước đầu tiên rồi khuấy đều và hỏi các con nhìn
thấy ly nước chúng ta như thế nào? Không còn thấy bột màu trong ly
nước và ly nước đổi thành màu đỏ.
Tiếp
tục cho bột màu xanh và bột màu vàng vào hai ly còn lại và cũng cho
trẻ nhận xét sự tan của bột màu và đổi màu của từng ly nước.
d. Giải thích, kết luận
Nước là một loại chất lỏng trong suốt,
không màu, không mùi, không vị. Nước có thể hòa tan rất nhiều thứ, khi
chúng ta cho bột màu đỏ vào ly khuấy đều thì bột màu dần tan ra hết
và chuyển nước từ trong suốt sang màu đỏ,
*Thí nghiệm 4: Vật chìm vật nổi
a. Mục đích:
Cho
trẻ biết được vật nào nổi và vật nào chìm khi được thả vào trong
nước.
b. Chuẩn bị:
-
Mút xốp cắt nhỏ ( Đủ cho cô và trẻ).
-
Hòn sỏi nhỏ ( Đủ cho cô và trẻ).
c. Cách tiến hành:
- Mỗi trẻ sẽ có
hai cái ly nước nguyên chất và cho trẻ nhận xét về ly nước trong
suốt, không màu, không mùi, không vị. Sau khi nhận xét về hai ly nước
tôi cho trẻ thả mút xốp vào ly thứ nhất và hỏi trẻ các con thấy
mút xốp như thế nào? Trẻ trả lời mút xốp thả vào nước thì mút
xốp nổi lên phía trên. Tôi cho trẻ tiếp tục bỏ viên sỏi vào ly còn
lại và cho trẻ quan sát hiện tượng. Khi thả viên sỏi vào ly nước các
con thấy gì? Thấy viên sỏi chao đảo trong ly nước và nằm xuống đáy ly.
-
Ồ, vậy sau có vật lại chìm có vật lại nổi thế kia? Khi cầm mút
xốp trên tay con thấy thế nào? Trẻ bảo rằng nó nhẹ. Thế còn viên
sỏi thì sau? Thấy nó nặng hơn.
d. Giải thích và kết luận
- Nước nguyên chất trong suốt, không
màu, không mùi, không vị. Do mút xốp nhẹ nên khi vào trong nước mút
xốp sẽ nổi lên trên, còn viên sỏi nặng nên khi gặp nước nó chìm
xuống dưới đáy ly.
4. Khả năng và phạm vi áp dụng của sáng kiến.
Việc
“ Ứng dụng những thí nghiệm khoa học vui vào công tác giáo dục trẻ ở trường mầm
non” trong năm học 2014 – 2015 của trường Mầm Non Tân Huề nhằm gây sự hứng thú,
tò mò, thích khám phá và giúp hình thành cho trẻ một số kỹ năng quan sát, suy
đoán,..
5. Những lợi ích và hiệu quả mang lại khi nhân rộng sáng
kiến.
-
Trong quá
trình thực hiện đề tài, tôi thấy việc áp dụng những thí nghiệm khoa học vui vào
tiết học đã gây cho trẻ sự hứng thú, trẻ luôn tập trung và đặt ra những câu hỏi
“tại sao” trước những hiện
tượng lạ đang xảy ra. Đa số trẻ đều hứng thú chờ đợi những giờ thí nghiệm. Việc
tạo điều kiện cho trẻ được khám quá, được làm quen với môi trường xung quanh là
một việc làm rất cần thiết và cần có một hệ thống các thí nghiệm khoa học từ độ
tuổi nhà trẻ tới các lứa tuổi tiếp theo. Đặc biệt với những trò chơi, thí
nghiệm đơn giản luôn tạo cho trẻ sự thích thú, ham tìm tòi, thích khám phá,
giúp phát triển khả năng quan sát, phân tích, phán đoán,...từ đó có thể nâng
cao hiệu quả của quá trình tìm hiểu môi trường xung quanh.
-
Và khi
đề tài này hoàn thành kết quả đạt được rất tốt.
a. Kết quả trên
trẻ:
- 100% trẻ đều được tiếp xúc với các
thí nghiệm khoa học.
- 95% trẻ chú ý vào nội dung thí nghiệm
-
75% trẻ mạnh dạn, tự tin nói lên ý kiến của mình.
- 85 % trẻ nắm được kiến thức cơ bản.
b. Nhận xét
-
Từ những kết quả mà tôi thu được trên trẻ sau một thời gian với các trò chơi và
thí nghiệm tôi thấy rằng đã đem lại kết
quả rất tốt. Các thí nghiệm luôn thu hút
được chú ý, hào hứng ở trẻ, giúp trẻ hiểu biết thêm về môi trường, về những
điều kì thú xung quanh ta.
-
Bên cạnh đó ngoài việc học ở trường, thì ba mẹ cũng là người giúp trẻ khám phá
khoa học với những nội dung gần gũi xung quanh cuộc sống của chúng ta.
Trên
đây là những sáng kiến, cải tiến, giải pháp mới các đề án của bản thân tôi
trong năm học 2014 – 2015.
Kính
đề nghị hội đồng xét duyệt sáng kiến xem xét, công nhận đề tài sáng kiến cấp Huyện.
0 comments:
Post a Comment